Tin tức
on Sunday 01-12-2024 4:16pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Phạm Thị Kim Ngân - IVFMD Tân Bình
Thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) đã tạo ra một bước ngoặt lớn trong việc hỗ trợ sinh sản. Cùng với sự phát triển của IVF, kỹ thuật bảo quản đông lạnh phôi cũng không ngừng hoàn thiện. Ban đầu, phương pháp đông lạnh chậm được sử dụng phổ biến. Tuy nhiên, sau đó, với sự ra đời của kỹ thuật thủy tinh hóa, việc bảo quản phôi trở nên hiệu quả hơn.
Với chính sách hai con được áp dụng rộng rãi tại Trung Quốc từ năm 2016, nhu cầu trữ đông phôi ngày càng tăng. Tuy nhiên, một câu hỏi đặt ra là: Liệu việc bảo quản phôi bằng thủy tinh hóa trong thời gian dài có ảnh hưởng đến khả năng sống sót và phát triển của phôi hay không?
Các nghiên cứu trên động vật cho thấy kết quả không thống nhất. Kết quả thực nghiệm trên chuột cho thấy tỷ lệ sống của phôi trong điều kiện đông lạnh, sự thụ tinh và phát triển phôi giảm khi thời gian bảo quản đông lạnh kéo dài, nhưng kết quả thực nghiệm trên phôi bò hoặc lợn lại không tìm thấy mối liên hệ này. Điều này có thể do sự khác biệt về sinh lý giữa các loài.
Các nghiên cứu lâm sàng trên người cũng đưa ra những kết quả trái ngược nhau. Một số nghiên cứu cho thấy thời gian bảo quản không ảnh hưởng đến khả năng mang thai, trong khi các nghiên cứu khác lại cho rằng việc bảo quản quá lâu có thể làm giảm khả năng này. Đặc biệt, đối với những phôi được bảo quản trên 5 năm, các bằng chứng vẫn còn hạn chế và chưa đủ thuyết phục. Điều này khiến nhiều cặp vợ chồng băn khoăn về độ an toàn của việc bảo quản phôi trong thời gian dài.
Tác giả Shaoquan Zhan và cộng sự (2024) đã tiến hành nghiên cứu này nhằm làm rõ vấn đề trên bằng cách phân tích dữ liệu của những phôi được bảo quản trên 5 năm. Qua đó, nghiên cứu đánh giá tác động của thời gian bảo quản thủy tinh hóa đối với kết quả mang thai và xác định thời gian bảo quản phôi thủy tinh hóa an toàn.
Nghiên cứu được thực hiện hồi cứu kết quả từ 01/01/2016 đến 31/12/2022 với 36.665 chu kỳ chuyển phôi đông lạnh. Bệnh nhân được chia thành ba nhóm theo thời gian lưu trữ phôi: Nhóm 1: thời gian lưu trữ từ 0–2 năm (31.565 chu kỳ); Nhóm 2: từ 2–5 năm (4.458 chu kỳ); và Nhóm 3: >5 năm (642 chu kỳ). Các kết quả chính được đánh giá là tỷ lệ làm tổ và tỷ lệ trẻ sinh sống. Các kết quả phụ bao gồm tỷ lệ thai sinh hóa, đa thai, thai ngoài tử cung, sẩy thai, cũng như các kết quả về trẻ sơ sinh. Phân tích dưới dạng biến nhị phân và phân tích hồi quy logistic đa biến được sử dụng để đánh giá ảnh hưởng của kết quả.
Kết quả chính thu được như sau:
Nguồn: Zhan, S., Lin, C., Lin, Q., Gan, J., Wang, C., Luo, Y., ... & Liu, H. Vitrification preservation of good-quality blastocysts for more than 5 years reduces implantation and live birth rates. Human Reproduction, 2024, 39(9), 1960-1968.
Thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) đã tạo ra một bước ngoặt lớn trong việc hỗ trợ sinh sản. Cùng với sự phát triển của IVF, kỹ thuật bảo quản đông lạnh phôi cũng không ngừng hoàn thiện. Ban đầu, phương pháp đông lạnh chậm được sử dụng phổ biến. Tuy nhiên, sau đó, với sự ra đời của kỹ thuật thủy tinh hóa, việc bảo quản phôi trở nên hiệu quả hơn.
Với chính sách hai con được áp dụng rộng rãi tại Trung Quốc từ năm 2016, nhu cầu trữ đông phôi ngày càng tăng. Tuy nhiên, một câu hỏi đặt ra là: Liệu việc bảo quản phôi bằng thủy tinh hóa trong thời gian dài có ảnh hưởng đến khả năng sống sót và phát triển của phôi hay không?
Các nghiên cứu trên động vật cho thấy kết quả không thống nhất. Kết quả thực nghiệm trên chuột cho thấy tỷ lệ sống của phôi trong điều kiện đông lạnh, sự thụ tinh và phát triển phôi giảm khi thời gian bảo quản đông lạnh kéo dài, nhưng kết quả thực nghiệm trên phôi bò hoặc lợn lại không tìm thấy mối liên hệ này. Điều này có thể do sự khác biệt về sinh lý giữa các loài.
Các nghiên cứu lâm sàng trên người cũng đưa ra những kết quả trái ngược nhau. Một số nghiên cứu cho thấy thời gian bảo quản không ảnh hưởng đến khả năng mang thai, trong khi các nghiên cứu khác lại cho rằng việc bảo quản quá lâu có thể làm giảm khả năng này. Đặc biệt, đối với những phôi được bảo quản trên 5 năm, các bằng chứng vẫn còn hạn chế và chưa đủ thuyết phục. Điều này khiến nhiều cặp vợ chồng băn khoăn về độ an toàn của việc bảo quản phôi trong thời gian dài.
Tác giả Shaoquan Zhan và cộng sự (2024) đã tiến hành nghiên cứu này nhằm làm rõ vấn đề trên bằng cách phân tích dữ liệu của những phôi được bảo quản trên 5 năm. Qua đó, nghiên cứu đánh giá tác động của thời gian bảo quản thủy tinh hóa đối với kết quả mang thai và xác định thời gian bảo quản phôi thủy tinh hóa an toàn.
Nghiên cứu được thực hiện hồi cứu kết quả từ 01/01/2016 đến 31/12/2022 với 36.665 chu kỳ chuyển phôi đông lạnh. Bệnh nhân được chia thành ba nhóm theo thời gian lưu trữ phôi: Nhóm 1: thời gian lưu trữ từ 0–2 năm (31.565 chu kỳ); Nhóm 2: từ 2–5 năm (4.458 chu kỳ); và Nhóm 3: >5 năm (642 chu kỳ). Các kết quả chính được đánh giá là tỷ lệ làm tổ và tỷ lệ trẻ sinh sống. Các kết quả phụ bao gồm tỷ lệ thai sinh hóa, đa thai, thai ngoài tử cung, sẩy thai, cũng như các kết quả về trẻ sơ sinh. Phân tích dưới dạng biến nhị phân và phân tích hồi quy logistic đa biến được sử dụng để đánh giá ảnh hưởng của kết quả.
Kết quả chính thu được như sau:
- Tỷ lệ làm tổ (IR) ở ba nhóm thời gian bảo quản phôi (0-2 năm, 2-5 năm và >5 năm) lần lượt là 37,37%, 39,03% và 35,78% (p = 0,017), và tỷ lệ trẻ sinh sống (LBR) tương ứng là 37,29%, 39,09% và 34,91% (p = 0,028).
- Sau khi loại trừ các yếu tố gây nhiễu, việc bảo quản phôi thủy tinh hóa trong thời gian dài (2-5 năm hoặc >5 năm) không ảnh hưởng đến tỷ lệ thai sinh hóa, đa thai, thai ngoài tử cung và sẩy thai (p > 0,05).
- Tuy nhiên, đông lạnh phôi hơn 5 năm làm giảm tỷ lệ làm tổ (tỷ lệ tương đối điều chỉnh (aOR) = 0,82; 95% KTC (0,69–0,97); p = 0,020) và tỷ lệ trẻ sinh sống (aOR = 0,76; 95% KTC (0,64–0,91); p = 0,002).
- Phân tích phân tầng cũng cho thấy bảo quản phôi nang trên 5 năm làm giảm tỷ lệ làm tổ (aOR = 0,78; 95% KTC (0,62–0,98); p = 0,033) và tỷ lệ trẻ sinh sống (aOR = 0,68; 95% KTC (0,53–0,87); p = 0,002). Tuy nhiên, không thấy tác động này trên phôi phân chia (p > 0,05).
- Kết quả chuyển phôi nang chất lượng tốt ở nhóm bảo quản >5 năm bị ảnh hưởng tiêu cực, trong khi thời gian bảo quản phôi nang chất lượng kém không liên quan đến kết quả thai kỳ.
- Thời gian bảo quản phôi không ảnh hưởng đến tỷ lệ sinh non, cân nặng khi sinh hay tỷ lệ giới tính của trẻ sơ sinh.
- Tuy nhiên, thời gian bảo quản càng lâu thì tỷ lệ trẻ nhỏ hơn tuổi thai (SGA) càng giảm (5,60%, 4,10% và 1,18%) và tỷ lệ trẻ lớn hơn tuổi thai (LGA) càng tăng (5,22%, 6,75% và 9,47%) (p < 0,05). Sự gia tăng LGA và giảm SGA có liên quan đáng kể với thời gian bảo quản.
Nguồn: Zhan, S., Lin, C., Lin, Q., Gan, J., Wang, C., Luo, Y., ... & Liu, H. Vitrification preservation of good-quality blastocysts for more than 5 years reduces implantation and live birth rates. Human Reproduction, 2024, 39(9), 1960-1968.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Giải trình tự RNA tế bào đơn cho thấy bức tranh toàn cảnh về biểu hiện gen và các mục tiêu tiềm năng cho quá trình lão hóa tinh hoàn ở người - Ngày đăng: 01-12-2024
Kết quả xét nghiệm di truyền tiền làm tổ phôi có nguồn gốc từ hợp tử một tiền nhân (1PN) - Ngày đăng: 01-12-2024
Vi mất đoạn AZFc và kết quả hỗ trợ sinh sản: một tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp - Ngày đăng: 29-11-2024
Rescue ICSI giúp cải thiện tỉ lệ trẻ sinh sống cộng dồn cho các chu kỳ có tỉ lệ tống xuất thể cực thứ 2 < 50% ở những phụ nữ trẻ tuổi: Phân tích mô hình hồi quy cộng tính tổng quát - Ngày đăng: 29-11-2024
Loại bỏ nhân tạo màng ZP ở giai đoạn tiền nhân của hợp tử: một nghiên cứu thăm dò để cải thiện sự phân mảnh phôi - Ngày đăng: 29-11-2024
Tỷ lệ trở lại và kết quả mang thai sau khi đông lạnh noãn để trì hoãn khả năng sinh sản theo kế hoạch: tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp - Ngày đăng: 29-11-2024
Tiềm năng của Theophylline và Pentoxifylline trong cải thiện chất lượng tinh trùng và kết quả phương pháp tiêm tinh trùng vào bào tương noãn - Ngày đăng: 29-11-2024
Lạc nội mạc tử cung liệu có ảnh hưởng đến sự phát triển của phôi? Một nghiên cứu hệ thống phân tích thông số động học hình thái phôi bằng hệ thống nuôi cấy timelapse ở phụ nữ LNMTC - Ngày đăng: 29-11-2024
Mở rộng ứng dụng chiến lược PGT-M cho đột biến vi mất đoạn và vi lặp đoạn nhỏ - Ngày đăng: 29-11-2024
Tác động của nồng độ oxy đến sự trưởng thành noãn trong ống nghiệm: một nghiên cứu tiến cứu mù đôi chia noãn - Ngày đăng: 28-11-2024
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK